Begin typing your search above and press return to search. Press Esc to cancel.

Những vị thuốc chữa tắc tia sữa


Tắc tia sữa là triệu chứng thường gặp đối với một mệnh sản phụ sau khi sinh. Nó làm cho người mẹ bứt rứt khó chịu, thỉnh thoảng gây sốt và sưng đau hai bầu vú, làm ảnh hưởng tới nhu cầu bú mẹ của trẻ.

Tắc tia sữa là triệu chứng thường gặp đối với một mệnh sản phụ sau khi sinh. Nó làm cho may loc nuoc nano người mẹ bứt rứt khó chịu, thỉnh thoảng gây sốt và sưng đau hai bầu vú, làm ảnh hưởng tới nhu cầu bú mẹ của trẻ. Đông y có rất nhiều vị thuốc có tác dụng làm thông tuyến sữa. Xin giới thiệu một số vị thuốc thường dùng: – Tạo giác thích: Là gai ở thân và cành đã được chế biến khô của cây bồ kếp (còn gọi chùm kết hay tạo giác), tên khoa học là Gleditsia fera (Lour) Merr mê hoặc Gleditsia sinensis Lam, họ vang Caesalpiniaceae. Gai bồ kếp to dài 10-12cm mọc thành cụm ở thân và cành. Là loại cây rất thông dụng, mọc hoang và được trồng khắp nơi trên núi sông ta, thu hái quanh năm. Thường chọn chùm gai to, hái về phơi hay sấy khô để dùng.

Tạo giác thích vị cay, tính chất ấm, quy vào hai kinh truất phế và đại trường. Có tác dụng hoạt huyết, tiêu viêm, trừ đờm, thông suốt sữa, dẫn giải độc, làm tan ung độc độc, sưng vú, tắc tia sữa. Liều sử dụng từ 4-8g, sắc uống hay tán bột làm viên, thường phối hợp thêm một số mệnh vị khác.

– Ty qua lạc: Là xơ của quả mướp chín già đã được chế biến khô. Tên khoa học là Luffa Cyclindrica, gia tộc bí Curcubitaceae. Mướp là loại rau quả phổ thông ở nước ta thu hoạch từ tháng 5 đến tháng 8, cây thân cỏ sống một năm, thân leo nhờ tua cuốn. Dùng quả già khô cứng, đập nhẹ cho rụng lớp vỏ ngoài, lắc cho rơi hết hạt, rồi phơi nắng cho khô, có trạng thái cắt nhỏ thành từng đoạn. Xơ mướp vị ngọt, tính bình. Quy vào ba kinh: phế, vị, can. Có tác dụng thông suốt kinh hoạt lạc, thanh nhiệt áp giải độc, tiền lương huyết, đồng cân thống, chữa đau nhức mình mẩy, gân xương vùng ngực và sườn, làm thông suốt tuyến sữa. Liều dùng 5-10g, sắc uống hằng ngày.

– Mộc thông: Còn gọi tam diệp mộc thông. Vị thuốc là thân đã chế biến khô của cây mộc thông, tên khoa học: Akebiae Trifoliata Thumb, Koidz, họ mộc thông Lardizabalaceae… Thuốc phải nhập từ Trung Quốc, chưa thấy có ở nước ta. Cây mộc thông.

Mộc thông suốt vị đắng, tính hàn, quy vào 4 kinh tâm, phế, tiểu trường, bàng quang. Có tác dụng lợi niệu, lưu thông khí huyết, làm hạ sốt. Dùng điều động trị danh thiếp chứng tiểu tiện khó khăn, đái dắt vì chưng thấp nhiệt, huyết quản tắc nghẽn, tắc tia sữa, bế kinh… Liều dùng: 5-10g sắc uống. Bài thuốc lẻ loi giản thường dùng chữa tắc sữa sau đẻ: Mộc thông suốt 10g, cẳng giò lợn 1 đôi, ninh kỹ cho nhừ, ăn cả cái và nước có thể cho thêm ít gạo thói quen nấu cháo.

– Thông thảo: Là lõi thân khô (phần bấc) của cây thông suốt thảo còn gọi là cây thông suốt thoát, có tên khoa học là Tetrapanax papiriferus (Hook) K.Koch, gia tộc ngũ gia so bì Araliaceae. Thông thảo là loại cây nhỏ cao 3-4m, thân cứng nhưng giòn, bên trong có lõi xốp trắng. Cây cành già thì lõi càng đặc và chắc hơn. Cây mọc hoang ở vùng núi nước ta như Cao Bằng, Lào Cai, Đăk Lăk… Thông thảo vị ngọt, tính lạnh, vào hai kinh phế, vị. Có tác dụng lợi tiểu, thanh thấp nhiệt làm xuống sữa. Dùng chữa danh thiếp bệnh tiểu tiện khó khăn (ngũ lâm), thủy thũng, tắc tia sữa. Liều sử dụng 2,5-5g sắc uống.

– Đu đủ rừng: Tên khoa học Trevesia palmata, Roxb vis, họ ngũ gia bì Araliaceae, là cây nhỏ, cành nhiều gai ruột bấc, mọc hoang ở khắp vùng núi nước ta, dùng như thông suốt thảo để chữa tắc tia sữa. – Đông quỳ tử: Là hạt già đã chế biến khô của cây thương xót ma (cây cối xay – Trung Quốc), có tên Abutilon avicenae Gaertn, họ bông Malvaceae. Vị thuốc được nhập từ Trung Quốc.

Đông quỳ tử vị ngọt, tính hàn, quy vào hai kinh đại trường, tiểu trường. Có tác dụng lợi niệu, thông sữa, nhuận tràng. Dùng chữa các bệnh về đường niệu, đàn bà tắc sữa, thiếu sữa, ung nhọt. Nhiều sử dụng 10-15g, sắc uống. – Vương bất lưu hành: Là hạt chín khô của cây vương bất lưu hành Vaccaria pyramidala Medie, gia tộc cẩm chướng Caryophyllaceae. Thuốc cũng được nhập từ Trung Quốc. Ở Việt Nam không có vị này.

Vương bất lưu hành vị đắng, tính chất bình, quy vào hai kinh can, vị. Công năng: hành huyết, thông suốt kinh, thúc sinh hạ nhũ (làm thông suốt sữa và đẻ mau), tiêu sưng tấy, liễm kim sang (làm liền miệng các vết thương). Dùng điều động trị danh thiếp bệnh kinh nguyệt bế tắc, sữa không thông. Liều dùng 10-15g.

Nhân dân ta thường sử dụng quả cây mua (Melasloma Candidum D.) gia tộc mua hoặc máy lọc nước quả trâu cổ (Ficuspumila L) họ dâu tằm (Moraceae) để thay thế, cách dùng, liều lượng giống như vương bất lưu hành. – Xuyên sơn giáp: Là vảy của con tê tê, loài động vật có vú, sống hoang dại ở vùng đồi núi danh thiếp tỉnh Quảng Ninh, Cao Bằng, Thanh Hóa, Nghệ An… Xuyên sơn giáp mùi hơi tanh, vị mặn, tính chất hơi lạnh quy vào kinh can, vị. Có tác dụng phá huyết, thông kinh lạc, tiêu thũng, bài nùng, lợi sữa. Dùng chữa các chứng bệnh phong hàn, tê thấp, đau nhức khớp xương, tắc tia sữa, mụn nhọt sưng tấy, đậu không mọc được. Liều dùng 5-10g.

Bài thuốc chữa tắc tia sữa (Dũng tuyền tán) phối hợp với một mệnh vị đương quy 200g, chế xuyên sơn giáp 200g, vương bất lưu hành 200g, xuyên khung 120g. Tán mịn, làm thành bột, ngày 3 lần, mỗi lần 4g uống với một ít rượu trắng. Theo suckhoedoisong

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét