1. Triệu chứng viêm loét tuyệt túc trực tràng chảy máu
Đau bụng quặn, đi đồng ra máu bầm có khi lẫn mủ. Khám thấy triệu chứng rất nghèo nàn, có khi chỉ có ấn đau dọc khung hết sức – túc trực tràng, nhất là vùng xích ma và thăm túc trực tràng hơi đau, có máu bầm. Triệu chứng toàn thân rầm rộ, nhất là trong các thể nặng: sốt, sút cân, thiếu máu. Có trạng thái có biểu lộ bệnh ngoài ống tiêu hóa: viêm khớp mê hoặc đau khớp, hồng ban nút, loét miệng – lưỡi, gan thoái hóa mỡ, viêm quanh ống mật, thận thoái hóa dạng tinh bột.2. Chẩn đoán viêm loét hết sức tràng
Nội soi : Cần cẩn trọng để tránh gây các tai biến thủng vì cực kì tràng đã bị loét nặng. Hai đặc điểm nội soi: tính chất dễ chảy máu của màng nhầy và tính chất đồng đều liên tục của tình trạng viêm đỏ lan tỏa, phù nề và danh thiếp ổ loét nông sâu.X-quang : cần cân nhắc kỹ trong đồng cân định và thận trọng khi tiến hành chụp tuyệt vời tràng có Baryd vì chưng lý máy lọc nước bởi vì đã nói về nội soi, nhất là khi nội soi đã nhìn thấy ổ loét. Chụp đại tràng cản quang kép giúp cho chẩn đoán nhiều hơn là chụp với Baryd neo người thuần bởi chưng thường phát hiện rõ hơn các ổ loét nông hoặc nhỏ và các polyp giả.
3. Điều trị và biến chứng
Vì chưa rõ nguyên nhân hoá bệnh nên kết quả điều trị nội khoa rất kì hạn chế. Nếu cấy phân phát hiện vi khuẩn bội nhiễm, cho nên sử dụng kháng đâm ra phù hợp theo kháng đâm đồ, nếu không có vi khuẩn thì dùng các loại sulfamide: salazopyrine, sulfaguanidine. Nếu kết hợp với corticoide thụt hậu môn; khi sử dụng corticoide (uống huyễn hoặc tiêm) phải cẩn trọng hơn trong bệnh Crohn bởi vì đã có sẵn ổ loét rất dễ thủng.Biến chứng : Bệnh thường diễn biến kéo dài với những đợt tiến triển có chu kỳ. Một số mệnh trường hợp có diễn biến cấp tính chất và tối cấp với triệu chứng cơ năng và toàn thân rất nặng và rầm rộ, mau chóng gây danh thiếp biến chứng: giãn đại tràng cấp tính chất (2-6%), thủng hết sức tràng (2,8%), chảy máu nặng (1-5%). Ngoài ra, có thể có danh thiếp biến chứng ở hậu môn – trực tràng (nứt, rò hậu môn, rò túc trực tràng – âm tôn giáo hoặc rò hậu môn – âm hộ) và ung thư hóa với tỷ lệ tăng dần theo thời kì mắc bệnh (trên 10 năm: 3-5%; trên 25 năm: 41%; trên 35 năm: 56%)
Giáo sư Nguyễn Xuân Huyên(Theo Bách Khoa Thư Bệnh học – Tập 1)
Tweet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét